Lược sử về Tư duy Thiết kế

Tư duy thiết kế là một thuật ngữ từ lâu đã được cộng đồng designer chúng ta biết đến, hoặc ít nhất là đã từng nghe qua đến, trong đó không thể không kể đến ngành UI/UX Design. Nhưng không chỉ riêng designer, Tư duy thiết kế là kiểu tư duy có tính ứng dụng cao và phù hợp với rất nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Và đặc biệt hơn là những người khởi xướng cho loại hình tư duy này lại không phải những designer. Bài viết này hi vọng sẽ giúp mọi người có một cái nhìn đầy đủ hơn về Tư duy thiết kế - Design Thinking.

 · 

8 min read

notion-image
Người khởi điểm là nhà tâm lý học Max Wertheimer, một trong ba người tạo ra tâm lý học Gestalt nổi tiếng để tạo tiền đề cho các nguyên tắc thiết kế thị giác phổ biến ngày nay, với những nghiên cứu tâm lý học về sự sáng tạo vào những năm 40 có tên "Productive Thinking" (tạm dịch: Tư duy năng suất).
Sau đó, trong những năm 50, John E. Arnold - Giáo sư Kỹ thuật cơ khí và Quản trị Kinh doanh tại đại học Stanford - là người tiên phong trong việc xác định, thúc đẩy và áp dụng tính sáng tạo một cách khoa học (Wikipedia). Trong tác phẩm "Creative Engineering" (tạm dịch: Kỹ thuật sáng tạo) chứa những ý tưởng đầu tiên của ông về sáng tạo cũng như quy trình sáng tạo được cho là tiền đề đầu tiên hình thành nên Tư duy thiết kế sau này.
Ông cho rằng khi thiết kế ở đời thực, chúng ta cần điều tra và tìm hiểu những gì mà mọi người cần, thấy rõ được những thách thức mới nơi không có những câu trả lời luôn đúng và duy nhất. Và để giải quyết, ta cần phải kết hợp các quan điểm khác nhau, nơi mà yếu tố "sáng tạo" theo ông là điều cần thiết phải có trong cuộc sống. Một kết quả sáng tạo theo ông gồm có 4 khía cạnh: (1) Tính năng đổi mới, (2) hiệu suất cao, (3) Giá thành sản xuất thấp và (4) Gia tăng khả năng bán. Bên cạnh đó ông cũng cho rằng một kết quả sáng tạo tốt là một kết quả tiếp cận cân bằng cả 4 khía cạnh.
Vào những năm 60, Horst Rittel, nhà lý thuyết thiết kế nổi tiếng với những nghiên cứu về thuật ngữ "Wicked Problems" (tạm dịch: Vấn đề nan giải) cũng như mối liên quan đến Thiết kế. Theo ông, vấn đề nan giải là một dạng vấn đề "không lập kế hoạch được", "không có câu trả lời dứt khoát". Gần như vậy, các vấn đề thiết kế cũng "không định hướng rõ ràng" và "không có câu trả lời đúng hay tối ưu", do đó chúng đều cần những giải pháp sáng tạo thay vì đáp án đến từ những phương pháp thông thường.
Ngoài ra, vấn đề nan giải lại xuất hiện ở gần như mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta (chính trị, xã hội, môi trường, kinh tế,...) với một mức độ phức tạp và liên kết lẫn nhau rất cao nên cần có hiểu biết sâu sắc về nhu cầu, động cơ và hành vi của con người để có thể giải quyết vấn đề. Đây là chủ đề về sau được Richard Buchanan phát triển và hoàn thiện hơn ở bài viết "Wicked Problems in Design Thinking" (tạm dịch: Vấn đề nan giải trong Tư duy thiết kế) vào năm 1992.
Herbert A. Simon là người (chính thức) đề cập thiết kế như một cách tư duy trong cuốn sách năm 1969 "The Sciences of the Artificial" (tạm dịch: Khoa học Nhân tạo) trong bối cảnh thiết kế đang dần được xem như một ngành khoa học. Trong tác phẩm của mình, nhà khoa học nhận thức nhận được giải Nobel cũng có đề cập đến việc xây dựng nguyên mẫu (prototype) và thử nghiệm (test), hai trong số những giai đoạn phổ biến của tư duy thiết kế ngày nay, với mục đích "để hiểu chúng (sản phẩm), các hệ thống cần phải được xây dựng và hành vi của chúng cần phải được quan sát".
Robert McKim và Rolfe Faste dạy "tư duy thiết kế như một phương pháp hành động sáng tạo" cùng với cuốn sách "Experiences in Visual Thinking" (tạm dịch: Trải nghiệm trong Tư duy trực quan) vào năm 1973 đã chứa những ý tưởng về sự kết hợp về não trái - não phải (lý trí - tưởng tượng) để định hình nên giải pháp toàn diện hơn.
Nigel Cross góp phần phát triển khái niệm tư duy thiết kế trong bài báo năm 1982 "Designerly Ways of Knowing" (tạm dịch: Những cách hiểu về thiết kế) tập trung quan tâm đến việc xem xét thiết kế như một ngành học riêng biệt so với Khoa học và Nghệ thuật & Nhân văn, khi kết hợp cả nghiên cứu thiết kế (design research) và giáo dục thiết kế (design education) đưa ra những đặc điểm, phẩm chất về tư duy thiết kế. Những ý tưởng này về sau đã được áp dụng trong lý thuyết, thực hành và giáo dục thiết kế hiện đại. Bryan Lawson cũng góp phần phân biệt khía cạnh tư duy giữa nhà thiết kế (tập trung vào giải pháp) và nhà khoa học (tập trung vào vấn đề).
Dẫu vậy đã có một cái nhìn rõ ràng hơn về Tư duy thiết kế, nhưng mọi thông tin đều chỉ đang dừng ở mức nghiên cứu cũng các tài liệu học thuật. Thì vào năm 1991, David M. Kelly cùng Bill Moggridge và Mike Nuttall đã thành lập IDEO - Công ty đầu tiên lấy tư duy thiết kế làm trọng tâm phát triển và dần chứng minh được giá trị thông qua hàng loạt các sản phẩm thiết kế trong các ngành nghề lĩnh vực đa dạng hiện nay. Đây là một bước tiến lớn của Tư duy thiết kế khi đã cho thấy đây là một khái niệm "xu hướng" để đối phó với sự biến động liên tục của thế giới. Một thông tin thú vị đó là David Kelly được học và tiếp thu chính chương trình đào tạo của John E. Arnold (mình có đề cập ở trên) về việc kết hợp kỹ thuật và nghệ thuật, tầm nhìn của IDEO mà David Kelly vẽ ra cũng được định hình từ chính John E. Arnold.
IDEO còn phát triển một cách mạnh mẽ hơn sau đó khi Tim Brown được bổ nhiệm làm CEO. Ông cũng xuất thân là người có nền tảng nghiên cứu học thuật về thiết kế, cùng với tài năng về kinh doanh, ông đã giúp IDEO tiếp cận đến với cuộc sống một cách gần gũi hơn khi đã phát triển những quy trình, phương pháp và công cụ liên quan đến tư duy thiết kế thân thiện cho ngay cả những người không chuyên cũng có thể vận dụng và thực hành. Cuốn sách "Change by Design" của ông cũng được đánh giá cao và khuyến khích nên đọc dành cho các nhà thiết kế, ông cũng có những bài viết nổi tiếng "Design Thinking" nói về Tư duy thiết kế trên HBR và giới thiệu chúng trên cộng đồng truyền thông nổi tiếng TED Talks.
Theo sau sự phát triển của IDEO, vào năm 2004, chính David Kelly cùng với Bernard Roth thành lập Viện Thiết kế Hasso Plattner tại ĐH. Stanford, hay còn được biết tới với tên d.school, là nơi đào tạo lấy tư duy thiết kế làm trung tâm. Đây cũng là nơi khai sinh ra một trong những mô hình tư duy thiết kế phổ biến nhất thế giới, cũng như là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thiết kế hoặc trung tâm thiết kế, ví dụ như Interaction Foundation Design (một những nơi đào tạo UX/UI chất lượng, mình cũng lấy thông tin và học hỏi ở đây rất nhiều).
Với những lá cờ tiên phong đầu tiên như IDEO và d.school, hiện tại tư duy thiết kế đã không chỉ được sử dụng trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ mà còn cả trong việc phát triển văn hoá kinh doanh, thương hiệu và giáo dục một cách linh hoạt, phù hợp mà không hề lộn xộn hay dị biệt.
P/S: Ngoài những nhân vật mình có kể ra thì trong lịch sử phát triển tư duy thiết kế vẫn còn nhiều cái tên khác nữa, mọi người có thể tìm hiểu thêm trên link trang Wikipedia nhé. Cảm ơn mọi người đã đọc ^^!
Nguồn thông tin tham khảo: Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Design_thinking#History IDF: https://www.interaction-design.org/literature/article/design-thinking-get-a-quick-overview-of-the-history Design Disciplin (trang này khá chuyên sâu về thiết kế nên có những góc nhìn và cách hiểu rất hay): https://www.designdisciplin.com/the-story-of-design-thinking/

Cập nhật thông tin

Khi đăng ký, bạn sẽ nhận được những thông tin mới nhất mà mình tổng hợp được về Thiết kế Trải nghiệm, Tâm lý học và Triết học.

Related Posts

Cover image for Hiểu kỹ hơn về thiết kế (P2)

Hiểu kỹ hơn về thiết kế (P2)

Khó có thể phủ nhận yếu tố sáng tạo là điều cần phải có ở mỗi người, mỗi ngành nghề, đặc biệt là trong ngành Thiết kế, ngành công nghiệp...

 · 

7 min read

Cover image for Hiểu kỹ hơn về Thiết kế (P1)

Hiểu kỹ hơn về Thiết kế (P1)

Mọi vật dụng bạn đang sử dụng trong đời sống hàng ngày, từ những thứ nhỏ nhặt nhất như bông ngoáy tai, cuộn giấy vệ sinh, đôi tất,… đến ...

 · 

13 min read